Insulin thông minh: Triển vọng trong điều trị đái tháo đường týp 1

Việc bảo quản insulin cũng yêu cầu điều kiện về nhiệt độ phù hợp và do đó không thể mang theo xa được. Những vấn đề này gây rất nhiều khó khăn trong điều trị và khiến chúng không có được một tuổi thơ “đầy đủ” một cách đúng nghĩa. Việc tìm ra insulin chỉ tiêm 1 lần/ngày, các nhà khoa học đã mang lại hy vọng cho bệnh nhân ĐTĐ týp 1.

Insulin đáp ứng glucose - Phép lạ trong điều trị

Bệnh ĐTĐ týp 1 thường gặp chủ yếu trên trẻ em và hiện nay chưa có phương pháp điều trị hữu hiệu ngoài sử dụng insulin. Mục tiêu lớn của các nhà khoa học là tạo ra một loại insulin chỉ cần tiêm với liều 1 lần mỗi ngày và chỉ hoạt động khi nồng độ đường huyết tăng cao. Bằng cách này, chế phẩm được gọi là “insulin thông minh” hay “insulin đáp ứng glucose” mới được xem như thay thế hoàn chỉnh chức năng của các tế bào beta sản xuất insulin trong tuyến tụy của một cơ thể khỏe mạnh. Và đây được coi là một phép lạ trong điều trị bệnh ĐTĐ týp 1.

Cho tới nay, đã và đang có nhiều dự án phát triển insulin thông minh, trong đó có nhiều dự án tiềm năng, đạt được những thành công ban đầu nhất định và cũng có những dự án đã thất bại.

Những thành công ban đầu

Năm 2010 tưởng chừng đã là một mốc lịch sử của bệnh ĐTĐ khi SmartCells - một công ty mới thành lập của Hoa Kỳ - công bố phát minh ra một loại “insulin thông minh”. Sau đó, hãng dược phẩm Merck & Co mua lại phát minh này để đưa vào thử nghiệm lâm sàng. Công nghệ này sử dụng kỹ thuật phân tử nano để tạo ra insulin sinh học. Tuy nhiên, sau khi phát triển thuốc thử MK-2640 và được đưa vào tiến hành thử nghiệm lâm sàng, kết thúc thử nghiệm vào cuối năm 2016, thuốc không đạt được hiệu quả điều trị mong muốn nên công ty đã chấm dứt sự phát triển của MK-2640 nhưng vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những nhược điểm của MK-2640.

Insulin thông minhViệc tìm ra insulin chỉ tiêm 1 lần/ ngày mang lại hy vọng cho bệnh nhân ĐTĐ týp 1.

Năm 2014, Công ty dược phẩm Sanofi cũng có một dự án ứng dụng nghiên cứu cơ bản để phát triển “insulin đáp ứng glucose”. Theo dự án này, các nhà khoa học có thể sửa đổi phân tử insulin để nó tự động kích hoạt đáp ứng với glucose hoặc kết hợp insulin với một polyme giúp giải phóng nó khi phát hiện glucose.

Tại Trường đại học Utah (Mỹ), PGS.TS. Danny Chou cũng đưa ra một chiến lược là thay đổi insulin để nó liên kết với albumin huyết thanh. Insulin sẽ được tách ra và hoạt động chỉ khi nồng độ glucose trong máu tăng cao. Để nhận biết nồng độ glucose trong máu, nhóm nghiên cứu sử dụng axit phenylboronic - một phức hợp phân tử qua cảm biến giúp nhận diện sự tăng glucose - yếu tố gây tăng đường huyết sẽ gây ra sự giải phóng insulin. Biện pháp này đã được thử nghiệm trên những con chuột bị đái tháo đường và cho hiệu quả trong 13 giờ. Đây là kết quả tốt nhất từ trước tới nay được ghi nhận trên các dẫn chất insulin và tốt hơn nhiều so với insulin tự nhiên. Đây cũng là lần đầu tiên một phân tử insulin cải tiến cho thấy phản ứng tốt với glucose trong cơ thể sống. Hiện nay, phương pháp này đang được tiếp tục nghiên cứu trước khi đưa vào ứng dụng lâm sàng.

Cần một insulin an toàn cho bệnh nhân

Với những nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến việc dùng quá liều insulin, sự an toàn cho bệnh nhân luôn được đặt làm nền tảng. Điều đó có nghĩa là đưa ra được nguyên tắc và chứng minh được hiệu quả không phải là tất cả mà trong điều trị, “insulin đáp ứng glucose” phải phản ứng một cách có chọn lọc với glucose và chỉ ở nồng độ mong muốn mà không gây tác dụng phụ như hạ đường huyết cho người sử dụng.

Các nhà khoa học đang cố gắng để xác định chất polyme đáp ứng glucose tốt nhất và cũng như chất liệu chứa insulin an toàn nhất. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các nhà khoa học là tìm ra cách kết hợp các cảm biến glucose cụ thể vào các cấu trúc hóa học lớn có thể hấp thụ insulin.

Giải thích cho việc đầu tư dàn trải giữa các chiến lược tìm ra insulin thông minh khác nhau, các nhà khoa học cho biết: Kết quả hoàn hảo nhất là thu được một phân tử có thể kiểm soát được sự tăng giảm của nồng độ glucose trong máu.

Còn quá sớm để có thể hứa hẹn bất cứ điều gì. Nhưng thế giới vẫn đang ghi nhận những nỗ lực không ngừng của các nhà khoa học trong mọi phương diện và chiến lược để tìm ra phương thức tối ưu nhất kiểm soát bệnh ĐTĐ týp 1 với mục tiêu chung là đem lại cho các bệnh nhân phụ thuộc insulin một cuộc sống tốt đẹp hơn.

DS. Trần Trang

Ho đờm lẫn máu, bệnh gì?

Tôi 68 tuổi, bị ho lâu ngày có đờm màu vàng. Đã đi khám chẩn đoán viêm họng và uống thuốc theo đơn nhưng không đỡ. Gần đây tôi ho có lẫn máu trong đờm. Có phải tôi bị ho lao hay ung thư vòm họng? Tôi rất lo lắng!

Phạm Văn Vinh (vinhpham@gmail.com)

Có nhiều nguyên nhân gây ho khạc đờm có máu, dựa vào tính chất máu có thể phân biệt ho ra máu trong một số bệnh, chẳng hạn: nếu viêm họng amiddan mà ho khạc mạnh có thể cũng có lẫn những dây máu vì các mạch máu nhỏ vùng họng bị vỡ khi áp lực ho mạnh. Hoặc bệnh giãn phế quản cũng có thể ho có máu nên dễ nhầm với ho ra máu trong bệnh lao phổi; ung thư thực quản, ung thư vòm họng cũng gặp ho ra máu... Muốn xác định chính xác bệnh cần thăm khám lâm sàng kết hợp những xét nghiệm cần thiết. Vì không trực tiếp thăm khám nên tôi không thể đưa kết luận cụ thể. Sau đây xin nêu những triệu chứng điển hình của bệnh lao phổi để bác hiểu thêm: Người bệnh lao phổi thường có biểu hiện sốt nhẹ về chiều, ăn kém, gầy sút cân; Ho ra máu là triệu chứng có thể gặp ở 60% những người lao phổi. Đặc điểm ho máu tươi, sủi bọt hồng, cũng có thể ho ra máu ít nhưng có khi ho nhiều (ộc ra máu làm người bệnh hoảng hốt - từ y học gọi ho ra máu sét đánh). Các triệu chứng khác là: đau ngực, khó thở, có tiếng rên khu trú ở một vùng của phổi; tiền sử hút thuốc lá, thuốc lào. Để chẩn đoán xác định cần xét nghiệm đờm tìm vi khuẩn lao, chụp Xquang phổi... Nếu lao phổi phải điều trị theo đúng phác đồ (bao gồm ít nhất là 2 tháng tấn công và 6 tháng duy trì). Lời khuyên: bác nên khám chuyên khoa hô hấp để xét nghiệm đờm hoặc nội soi vòm họng tìm nguyên nhân và điều trị đúng bệnh.

BS. Vũ Hồng Ngọc

Nắng nóng coi chừng nhiễm bệnh thương hàn

Y văn thường mô tả triệu chứng mạch nhiệt phân ly trên lâm sàng để nói về bệnh thương hàn. Vào mùa nắng nóng, môi trường sống và điều kiện sinh hoạt hàng ngày của người dân khá thuận lợi cho bệnh thương hàn phát triển, làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.

Cần quan tâm đến vấn đề này để chủ động phòng ngừa, vì từ lâu bệnh thường ít khi được chú ý như: trường hợp dịch bệnh sởi, thủy đậu... xảy ra trong thời gian vừa qua.

Đặc điểm bệnh thương hàn

Thương hàn là một bệnh truyền nhiễm có thể phát triển thành dịch được lây truyền qua đường tiêu hóa do vi khuẩn thương hàn và phó thương hàn gây nên. Vi khuẩn gây bệnh đột nhập qua đường tiêu hóa tới lách, sau đó phát triển nhân lên rồi xâm nhập vào máu và gây ra bệnh cảnh lâm sàng nhiễm trùng nhiễm độc với dấu hiện khá điển hình là mạch nhiệt phân ly.

Trực khuẩn thương hàn có tên khoa học là Salmonella typhi thuộc loại vi khuẩn gram âm, có 107 type kháng nguyên và 3 phó thương hàn với tên khoa học là Salmonella enteritidis còn gọi là paratyphi A, Salmonella schottmulleri còn gọi là paratyphi B, Salmonella hirschfeldii còn gọi là paratyphi C. Thực tế ghi nhận, tỉ lệ mắc bệnh do vi khuẩn thương hàn và vi khuẩn phó thương hàn là 10/1. Loại vi khuẩn này có sức đề kháng cao, chúng có thể sống trong thời gian hàng tháng trời ở ngoài môi trường. Ở nhiệt độ 55oC trong vòng 30 phút, vi khuẩn có thể bị giết chết. Cồn và các loại thuốc sát khuẩn khác cũng có thể diệt được vi khuẩn trong thời gian từ 3 - 5 phút. Hiện nay, trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn trên thực tế đã kháng lại với nhiều loại kháng sinh cổ điển như: chlorocid, bactrim, ampicillin... nhưng vẫn còn nhạy cảm với nhóm thuốc quinolone và cephalosporine thế hệ 3.

Trực khuẩn thương hàn

Trực khuẩn thương hàn

Bệnh thương hàn thường xảy ra ở những nơi có điều kiện sinh hoạt kém vệ sinh. Các nhà khoa học đã thống kê hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 17 triệu trường hợp mắc bệnh với khoảng 600.000 người chết do bệnh thương hàn. Tại nước ta, thời gian trước đây ghi nhận mỗi năm có khoảng từ 10 - 20 ngàn trường hợp mắc bệnh thương hàn làm cho hàng chục người bị tử vong nhưng đến năm 2013 giảm xuống chỉ còn 653 trường hợp mắc và không có trường hợp nào bị tử vong. Tuy vậy, dịch bệnh có thể quay trở lại bất cứ lúc nào nếu chủ quan không tiếp tục duy trì tích cực các biện pháp phòng bệnh chủ động. Bệnh thường lưu hành, tản phát ở nhiều tỉnh; hay gặp trong các vụ dịch nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long, ven biển miền Trung, một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ và kể cả ở miền núi phía Bắc.

Thực tế cho thấy người bệnh và nhất là người lành mang trùng là ổ chứa chính của mầm bệnh thương hàn. Vi khuẩn thương hàn thường sống trong túi mật người bệnh, người lành mang trùng và được đào thải ra môi trường bên ngoài qua phân trong một thời gian dài. Ổ chứa của vi khuẩn phó thương hàn đôi khi phát hiện gặp ở các động vật nuôi trong nhà. Người bị mắc bệnh do dùng thức ăn hoặc nước uống bị nhiễm trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn. Những phương thức lây nhiễm khá phổ biến là uống nước chưa đun sôi bị nhiễm mầm bệnh như: nước lã, nước đá; ăn phải thức ăn bị nhiễm vi khuẩn nhất là ăn loại trai, hàu, nghêu, sò, ốc, hến... nhiễm mầm bệnh từ nguồn nước bị nhiễm bẩn nhưng không nấu chín kỹ. Đồng thời, việc sử dụng các loại rau quả trồng bón bằng phân tươi khi ăn sống không được xử lý sạch; dùng sữa và các chế phẩm từ sữa bị nhiễm vi khuẩn thương hàn qua quá trình chế biến, bảo quản không tốt cũng là tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, ruồi nhà cũng là nguyên nhân gây nhiễm bẩn các loại thực phẩm và trong môi trường thực phẩm đó vi khuẩn sẽ phát triển nhân lên đủ khả năng gây bệnh cho người. Nên biết rằng vi khuẩn có trong phân người bệnh xuất hiện từ tuần thứ nhất đến hết thời kỳ phục hồi sức khỏe thường từ 1 - 3 tuần. Có khoảng 10% số bệnh nhân không được điều trị sẽ thải vi khuẩn qua đường phân trong vòng 3 tháng và có khoảng từ 2 - 5% số bệnh nhân trở thành người lành mang trùng mãn tính.

Khi bị mắc bệnh, bệnh cảnh lâm sàng thường có triệu chứng sốt tăng dần, người bệnh bị rối loạn tiêu hóa, bụng trướng và có dấu hiệu ùng ục bên hố chậu phải; bị phát ban dạng sởi ở vùng quanh thắt lưng. Độc tố thương hàn tác động vào các mảng bạch huyết ở họng và ruột gây ra loét họng, loét ruột gây chảy máu ruột. Độc tố cũng gây nhiễm độc cơ tim, làm viêm cơ tim, trụy tim mạch. Đồng thời khi độc tố nhiễm vào não thất 3 gây triệu chứng mạch nhiệt phân ly, viêm não rất đặc thù của bệnh thương hàn. Các trường hợp nhẹ thường có triệu chứng giống như viêm dạ dày, viêm ruột gây nên tiêu chảy thông thường. Chẩn đoán xác định bệnh khi cấy máu thấy mọc vi khuẩn thương hàn. Ngoài ra, các xét nghiệm khác bổ sung cũng giúp cho việc chẩn đoán bệnh là dùng phản ứng Widal hoặc sử dụng kháng thể đơn dòng phát hiện kháng nguyên H trong máu bệnh nhân.

Phòng bệnh bằng vắc-xin

Bệnh thương hàn có thể phòng ngừa bằng cách sử dụng vắc-xin để bảo vệ. Trên thị trường hiện nay có loại vắc-xin thương hàn dùng để tiêm và vắc-xin dùng để uống.

Vắc-xin thương hàn dùng để tiêm:

Tên gọi chung là vắc-xin thương hàn tiêm với tên thương mại là Typhim Vi, có thời gian bảo vệ ít nhất là 3 năm. Vắc-xin được dùng để phòng bệnh thương hàn cho người lớn và trẻ em trên 5 tuổi; đặc biệt nên sử dụng cho những người sống hay đi du lịch đến những vùng có bệnh lưu hành, người di cư, quân nhân, nhân viên y tế dễ có nguy cơ bị mắc bệnh. Loại vắc-xin thương hàn tiêm không có chỉ định khuyến cáo dùng cho trẻ em dưới 2 tuổi; đối với trẻ em từ 2 - 5 tuổi phải có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa trước khi sử dụng. Thường tiêm một liều vắc-xin thương hàn 0,5ml ở dưới da hoặc bắp thịt; trong vòng ít nhất là 3 năm được bảo vệ không cần tiêm mũi thứ hai.

Sau khi tiêm vắc-xin khoảng 24 giờ có thể có một số phản ứng phụ như 10% đau nhẹ tại chỗ tiêm, có phản ứng viêm hoặc nổi cục cứng nhưng ít gặp hơn; thực tế có khoảng từ 1 - 5% các trường hợp tiêm vắc-xin có biểu hiện sốt nhẹ. Nên hoãn tiêm vắc-xin cho những người đang bị sốt hoặc nhiễm khuẩn nặng, nếu nghi ngờ có thể hỏi ý kiến của bác sĩ. Không nên tiêm vắc-xin cho những người bị mẫn cảm với thành phần của vắc-xin. Đối với phụ nữ có thai, việc tiêm vắc-xin phòng bệnh thương hàn cần được cân nhắc khi tại địa phương có nguy cơ dịch bệnh xảy ra và nên tham khảo ý kiến của bác sĩ.

Vắc-xin thương hàn dùng để uống:

Tên gọi chung là vắc-xin thương hàn uống với tên thương mại là Zerotyph cap, cũng có thời gian bảo vệ ít nhất là 3 năm. Loại vắc-xin thương hàn uống dùng để phòng ngừa bệnh thương hàn, có thể phòng được bệnh phó thương hàn paratyphi B. Thường uống 1 viên vào các ngày thứ nhất, thứ ba và thứ năm; uống 1 giờ trước bữa ăn với nước đun sôi để nguội hoặc nước ấm. Nếu đi du lịch từ vùng không có dịch bệnh đến vùng có lưu hành dịch thì phải uống 1 liều vắc-xin nếu liều cuối cùng uống trước đó hơn 1 năm. Chú ý rằng một số loại kháng sinh và sulfonamides có tác dụng chống lại vi khuẩn salmonella nên không được dùng cùng một lúc với vắc-xin Zerotyph cap uống; đối với các thuốc tiêm khác kể cả vắc-xin sống thì có thể sử dụng đồng thời.

Dùng vắc-xin thương hàn uống có thể có tác dụng phụ như: rối loạn nhẹ đường ruột. Chống chỉ định sử dụng loại vắc-xin này cho những người bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải, người đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch và kháng sinh; người đang bị sốt cấp tình, nhiễm khuẩn đường ruột cấp tính; trẻ em dưới 3 tháng tuổi; đối với phụ nữ có thai thì hiện nay các nhà khoa học chưa xác định được tính an toàn của vắc-xin nên cũng cần thận trọng.

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH

Đột quỵ, tai biến có thể phòng ngừa

Độtquỵđượcmệnhdanhlà “kẻgiết ngườithầmlặng”thểhiện ởtỷlệtửvong rấtcao:50% sốcađộtquỵtửvong,hoặc cũngđể lạinhững dichứng từnhẹđến nặng,rất ítngườihồiphụchoàn toàn.

Ngoàinhữngtrườnghợpbệnhlý,những ngườicónguycơđộtquỵ cómột phần lớndochế độsinhhoạtkhôngđiềuđộ, nhưnhữngngườithườngxuyênsửdụng rượu bia,chấtkíchthích,người béophì, lườivận động…Nhưvậybiệnpháp đầu tiênđể ngăn chặntaibiến làxâydựng một chế độ dinh dưỡng và hoạt động hợp lý.

Cácbiểu hiệncókhảnăng làđột quỵ thường làméo miệng,yếu hoặc liệtchân taymộtbên,têhoặcmấtcảmgiácởmột bên,mùhoặc yếu thị giác ở mộtbên,… Ngoàiracòncómột biểuhiệndễnhận biết khác đó làcứng miệng,nóingọng, nóikhó…dovùng não điều khiểnchức năng nói bị ảnh hưởng. Những người đangsinh hoạt bìnhthường,độtnhiêncó mộthoặcnhiều biểuhiệnkểtrên thìrất cókhảnăngđãbịmộtcơn taibiến nhẹ.

Các thực phẩmchứcnăngcóthểsử dụng rộng rãi và cũng có khá nhiều nhómsảnphẩmđểtăngtuần hoàn não. Vídụnhưnhómsản phẩm từcaobạch quả.Dịch chiếttừloạicâynày đã được dùng từ rất lâu và khoa học hiện đại đãchứng minh tác dụng của nó trên tuần hoànnão,mặcdùcơchế chưađượcxác địnhcụthể.Một nhómsản phẩmkhác cũng mớixuấthiện ở nước takhoảng 6-7nămgầnđâynhưngpháttriểnnhanh chóng, đólànhómNattokinase.Đâylàmộtchất đượclấy từđậunànhlên men vàđược cho là có tác dụng trên sự hình thành huyết khối, là một trong các nguyên nhângâyđộtquỵ.

Trong đôngy,nổi tiếng nhấtphảikể đến cácsảnphẩmchứaNgưuhoàng.Bản chấtcủaNgưuhoànglàsỏi mật củatrâu bò.Theo các sách y học cổtruyền,ngưu hoàngcó tácdụng “thanhtâmgiảiđộc, lợiđàm lươngkinh,thôngkhiếu tịchtà”- Bản thảo tùngtân,diễngiảiralàcótác dụng khaithông những vùng nãobịtắc mạch,quađó giảiquyết tìnhtrạngthiếu máuvàonãogâyđộtquỵ.Ngưu hoàngtự nhiên không thể đáp ứng số lượng lớn nênhiệnnaycác nhà sảnxuấtđãsửdụng ngưuhoàngnhân tạo.Tùytheo cáchchế biếnmàcác loạingưuhoàngnhântạocó tácdụng cũng nhưgiáthànhkhác nhau. Ngoàidạngbào chếviên hoàn cổtruyền, đã có cảsảnphẩm ởdạnglỏngđểnhững người sau tai biến vẫn còn các triệu chứngcứnghàm,khónuốt,hoặcngười cao tuổi tiện sử dụng

Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Ngưu Hoàng Thanh Tâm – Nhập khẩu từ Hàn Quốc

Thành phần :Ngưu hoàng , nhân sâm, Xạ hương….

Công dụng

-Hỗ trợ điều hòa khí huyết , mạnh tim

-Tăng cường lưu thông máu, đặc biệt là lưu lượng máu não, giúp sự tuần hoàn không bị đình trệ, tắc nghẽn

-Hỗ trợ củng cố sức khỏe hệ tim mạch, phòng xơ vữa động mạch

Đối tượngsử dụng:

-Dựphòngchongườicónguycơcao mắctaibiếnmạchmáunão, hội chứng mạch vành.

-Dùngchongườilớnsautaibiếnmạchmáunão,mấtcân bằng vậnđộng.

-Dùngchongười bị hội chứng tiền đình: đauđầu,hoa mắt, chóng mắt.

SỐ ĐT TƯ VẤN : 0888289828

Sản phẩm được nhập khẩu trực tiếp từ Hàn Quốc và được phân phối bởi CN công ty CP Dược Phẩm Nam Hà

Số GPQC: 02171/2016/XNQC-ATTP

Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

Độtquỵđượcmệnhdanhlà “kẻgiết ngườithầmlặng”thểhiện ởtỷlệtửvong rấtcao:50% sốcađộtquỵtửvong,hoặc cũngđể lạinhững dichứng từnhẹđến nặng,rất ítngườihồiphụchoàn toàn.

Ngoàinhữngtrườnghợpbệnhlý,những ngườicónguycơđộtquỵ cómột phần lớndochế độsinhhoạtkhôngđiềuđộ, nhưnhữngngườithườngxuyênsửdụng rượu bia,chấtkíchthích,người béophì, lườivận động…Nhưvậybiệnpháp đầu tiênđể ngăn chặntaibiến làxâydựng một chế độ dinh dưỡng và hoạt động hợp lý.

Cácbiểu hiệncókhảnăng làđột quỵ thường làméo miệng,yếu hoặc liệtchân taymộtbên,têhoặcmấtcảmgiácởmột bên,mùhoặc yếu thị giác ở mộtbên,… Ngoàiracòncómột biểuhiệndễnhận biết khác đó làcứng miệng,nóingọng, nóikhó…dovùng não điều khiểnchức năng nói bị ảnh hưởng. Những người đangsinh hoạt bìnhthường,độtnhiêncó mộthoặcnhiều biểuhiệnkểtrên thìrất cókhảnăngđãbịmộtcơn taibiến nhẹ.

Các thực phẩmchứcnăngcóthểsử dụng rộng rãi và cũng có khá nhiều nhómsảnphẩmđểtăngtuần hoàn não. Vídụnhưnhómsản phẩm từcaobạch quả.Dịch chiếttừloạicâynày đã được dùng từ rất lâu và khoa học hiện đại đãchứng minh tác dụng của nó trên tuần hoànnão,mặcdùcơchế chưađượcxác địnhcụthể.Một nhómsản phẩmkhác cũng mớixuấthiện ở nước takhoảng 6-7nămgầnđâynhưngpháttriểnnhanhchóng, đólànhómNattokinase.Đâylàmộtchấtđượclấy từđậunànhlên men vàđược cho là có tác dụng trên sự hình thành huyết khối, là một trong các nguyên nhângâyđộtquỵ.

Trong đôngy,nổi tiếng nhấtphảikểđến cácsảnphẩmchứaNgưuhoàng.Bản chấtcủaNgưuhoànglàsỏi mật củatrâubò.Theo các sách y học cổtruyền,ngưuhoàngcó tácdụng “thanhtâmgiảiđộc, lợiđàm lươngkinh,thôngkhiếu tịchtà”- Bản thảo tùngtân,diễngiảiralàcótácdụng khaithông những vùng nãobịtắc mạch,quađó giảiquyết tìnhtrạngthiếumáuvàonãogâyđộtquỵ.Ngưu hoàngtựnhiên không thể đáp ứng số lượng lớn nênhiệnnaycác nhà sảnxuấtđãsửdụng ngưuhoàngnhân tạo.Tùytheo cáchchếbiếnmàcác loạingưuhoàngnhântạocó tácdụng cũng nhưgiáthànhkhác nhau. Ngoàidạngbào chếviên hoàn cổtruyền, đã có cảsảnphẩm ởdạnglỏngđểnhững ngườisautaibiếnvẫncòncáctriệuchứngcứnghàm,khónuốt,hoặcngười cao tuổi tiện sử dụng

`Giải phóng` bộ ngực khủng gần 3kg cho nữ bệnh nhân 38 tuổi

Các bác sĩ khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ và hàm mặt- Bệnh viện E vừa tạo hình thành công ca phì đại tuyến vú khổng lồ có kích thước lớn hơn gấp 5- 6 lần so với người bình thường…

Đã có lúc mong muốn "cắt phăng" bộ ngực khủng...

Trước đó, Khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ và hàm mặt tiếp nhận một nữ bệnh nhân (38 tuổi, ở Yên Bái) có bộ ngực có kích thước khổng lồ và chảy sệ bất thường… Sau khi thăm khám, đo thể tích ngực cho bệnh nhân, các bác sĩ xác định bệnh nhân nữ này bị phì đại tuyến vú khổng lồ, mỗi bên vú nặng hơn 1,4kg và 1,5kg với độ sa trễ tương đối lớn. Các bác sĩ đã tư vấn và tìm ra phương án phẫu thuật tạo hình tốt nhất cho bệnh nhân.

Bộ ngực khủng gần 3kg của nữ bệnh nhân

Nữ bệnh nhân này cho biết, trước đây, ngực của chị cũng không có kích thước lớn. Nhưng sau mỗi lần mang thai, sinh con ngực của chị lại to lên gấp đôi. Năm 2005, khi mang thai lần đầu, kích thước ngực của chị bắt đầu tăng lên, tuy nhiênchị chỉ nghĩ đơn giản do ảnh hưởng của thời kỳ thai sản.

"Sinh con xong, ngực tôi không trở về trạng thái ban đầu mà bộ ngực ngày càng to ra, chảy xệ bất thường kèm theo đau. Đến năm 2012, khi mang thai con thứ hai, ngực của tôi phát triển to nhanh bất thường rồi chảy dài thêm nhưng do không nghĩ đây là một căn bệnh nên không đi khám mà cố gắng chịu đựng"- bệnh nhân nhớ lại.

Chỉ đến khi kích thước tuyến vú đã tăng gấp 5-6 lần so với trước và bắt đầu gây nên những biến chứng như tức ngực, khó thở, biến dạng cột sống vùng cổ... thì bệnh nhân mới đến Bệnh viện E để khám và điều trị.

Chia sẻ về những khổ sở với bộ ngực khổng lồ, nữ bệnh nhân cho hay, chị luôn gặp “sự cố” trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Sức nặng của bộ ngực đã khiến bước đi của chị nặng nề, khó tự thay đổi tư thế và không ít lần bị ngã dúi mặt về đằng trước. Khi ngủ, chị luôn cảm giác khó thở, bị chèn ép trong lồng ngực và phải nằm nghiêng để tránh ngạt thở. Vì thế, đã có lúc, bệnh nhân chỉ mong muốn được “cắt phăng” bộ ngực khổng lồ để giải phóng sức nặng cho cơ thể.

Kỹ thuật mới: Phẫu thuật thu gọn vú có vạt nuôi quầng vú từ động mạch vú ngoài

Các bác sĩ đang tiến hành ca phẫu thuật cắt đi 1.650gr trọng lượng tuyến vú cho bệnh nhân

ThS.BS Nguyễn Đình Minh – Trưởng khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ và hàm mặt cho biết, đây là trường hợp bị phì đại tuyến vú khổng lồ với độ sa trễ từ xương đòn đến núm vú bất thường là 31 cm.

Theo ThS.BS Minh, để thực hiện phẫu thuật tạo hình tuyến vú phì đại khổng lồ cho bệnh nhân, trước đây, các bác sĩ thường áp dụng kỹ thuật thu gọn vú có ghép quầng vú nhưng kỹ thuật này lại có nhược điểm là nguy cơ hoại tử mảnh ghép, mất cảm giác quầng vú, không còn khả năng dẫn sữa. Vì thế, ThS.BS Minh lựa chọn kỹ thuật mới, có tính ưu việt hơn, đó là phẫu thuật thu gọn vú có vạt nuôi quầng vú từ động mạch vú ngoài.

Ca phẫu thuật tạo hình tuyến vú phì đại cho bệnh nhân được các bác sĩ Khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ và hàm mặt thực hiện kéo dài khoảng 5 giờ. Các bác sĩ đã phải loại bỏ khoảng 1650 gr trọng lượng tuyến vú cho bệnh nhân (chia đều cho cả 2 bên vú của bệnh nhân) và tạo hình lại bầu vú cho bệnh nhân bằng kỹ thuật thu gọn vú sử dụng cuống mạch ngực ngoài.

Theo BS Minh, việc áp dụng kỹ thuật mới này sẽ đẩy phần khó về phía các bác sĩ phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ. Bởi vì, trong quá trình phẫu thuật, các bác sĩ phải bảo tồn nguồn cấp máu cho đơn vị quầng núm vú bằng cách giữ lại động mạch vú ngoài trong cùng một vạt da tuyến mang đơn vị quầng núm vú. Đơn vị quầng vú dính liền với khối tuyến còn lại được khâu treo để tạo hình thể vú, phần da tuyến thừa được cắt bỏ để tạo vị trí mới cho đơn vị quầng núm vú, chuyển vạt nuôi quầng vú đến vị trí mới và khâu đóng da.

"Nhờ sự khéo léo của các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ giữ lại cuống nuôi, giữ lại một phần ống tuyến nên sau khi thu nhỏ, quầng núm vú sẽ có cơ hội sống cao hơn, tỉ lệ rối loạn cảm giác rất thấp, bệnh nhân vẫn nuôi con được bằng sữa mẹ” – ThS.BS Minh cho hay.

Phì đại tuyến vú: Nhiều nguy hiểm cho sức khoẻ

Theo các chuyên gia phì đại tuyến vú gây ra nhiều hệ luỵ cho sức khoẻ

ThS.BS Minh giải thích thêm, phì đại tuyến vú là tình trạng bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng tăng thể tích của vú trên mức bình thường, gây ra bởi sự phát triển của tuyến vú kèm theo sự thâm nhập tổ chức mỡ. Phì đại tuyến vú có thể xảy ra ở tuổi dậy thì hoặc trong thời kỳ mang thai. Thông thường, vú người Việt Nam (Á đông) nằm trong khoảng 250ml, khi thể tích vú tăng lên trên 300ml thì được coi là phì đại. Có các mức độ phì đại tuyến vú khác nhau: Phì đại vừa phải với thể tích vú từ 300-500ml; Phì đại nhiều với thể tích vú từ 500 – 1.000ml; Phì đại rất nhiều với thể tích vú trên 1.000ml và phì đại khổng lồ với thể tích vú lớn hơn 1.500ml…

Nguy hiểm của căn bệnh phì đại tuyến vú là gây nhiều khó chịu tại chỗ như: loét nếp vú, trở ngại khi mặc áo, vận động, hay những biến đổi về tư thế (gù do gập vai để che dấu ngực), cột sống cổ sẽ bị ảnh hưởng bởi sức nặng của bộ ngực. Nếu không được phẫu thuật tạo hình kịp thời, bệnh nhân có thể bị thoái hóa cột sống và mắc nhiều bệnh lý nguy hiểm khác…

ThS.BS Minh khuyến cáo: Với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại hiện nay, căn bệnh phì đại tuyến vú có thể được các bác sĩ phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ dễ dàng, sớm trả lại vẻ đẹp cho người phụ nữ. Nhất là đối với những trường hợp bị phì đại tuyến vú khổng lồ có thể nặng tới 1,5-4kg, với độ sa trễ lớn từ 30-50cm khiến người bệnh mặc cảm, khó thở, biến dạng cột sống, ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt hằng ngày thì cần đến các cơ sở y tế uy tín, chất lượng để được các bác sĩ tư vấn và phẫu thuật tạo hình, tránh tìm đến các cơ sở thẩm mỹ “chui”, không được cấp phép… mà tiền mất tật mang.

Thái Bình- Xuân Thanh

Tập huấn cập nhật các xét nghiệm Y khoa và Thalassemia cho chuyên gia, bác sỹ 6 tỉnh Bắc Bộ

Hội nghị có sự hiện diện của đồng chí Đỗ Văn Phong - Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh, cùng đại diện lãnh đạo Sở Y tế và 1.000 chuyên gia, bác sĩ đến từ 6 tỉnh khu vực Bắc Bộ: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn.

Phát biểu tại buổi tập huấn, đồng chí Nguyễn Văn Phong đánh giá cao sự phối hợp của BVĐK MEDLATEC và BVĐK tỉnh Bắc Ninh góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tạo điều kiện để người dân tỉnh Bắc Ninh được sử dụng những dịch vụ y tế chất lượng cao.

Ông Nguyễn Văn Phong - Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh phát biểu tại Hội nghị

Ban Chủ tọa Hội nghị

Hội nghị thu hút hơn 1.000 chuyên gia, bác sĩ đến từ 6 tỉnh khu vực Bắc Bộ tham gia

Trong nội dung hội nghị, các chuyên gia đã chia sẻ tới toàn thể quý vị nội dung tập huấn, cập nhật các xét nghiệm Y khoa và Thalassemia qua 3 nội dung tập huấn chính:

Nội dung 1:Vai trò của xét nghiệm trong thực hành lâm sàng và ứng dụng của các chỉ dấu khối u. Trình bầy về nội dung này, PGS. TS Phạm Thiện Ngọc cho biết:Xét nghiệm có vai trò quan trọng trong công tác khám chữa bệnh tại cơ sở Y tế, chiếm tỉ trọng lớn từ 60% đến 70% các quyết định lâm sàng. Kết quả xét nghiệm cần đảm bảo chính xác bởi đây là một trong những cơ sở để bác sĩ đưa ra chẩn đoán, từ đó có kế hoạch điều trị phù hợp cho người bệnh.

PGS. TS Phạm Thiện Ngọc cũng nhấn mạnh: Các chỉ điểm ung thư rất có ích trong hỗ trợ chẩn đoán, chẩn đoán phân biệt, theo dõi điều trị cũng như giám sát tái phát ung thư. Khi có sự bất thường chỉ điểm ung thư cần nhớ 3 nguyên tắc cơ bản: loại trừ dương tính giả, phối hợp các chỉ điểm ung thư và theo dõi động học. Nếu phối hợp tốt giữa bác sĩ lâm sàng và cán bộ xét nghiệm trong phiên giải kết quả và sử dụng hiệu quả các chỉ điểm ung thư sẽ giảm chi phí điều trị, tăng cơ hội sống sót cho người bệnh.

Ngoài ra PGS. TS Phạm Thiện Ngọc cũng chia sẻ thêm về các chỉ điểm ung thư của các cơ quan có tỷ lệ ung thư cao hiện nay như: Ung thư Gan-Mật, Tiêu hóa, tụy, phổi, buồng trứng, ung thư vú, ung thư tuyến giáp...

Nội dung 2: Vai trò và ý nghĩa của xét nghiệm Double test và Triple test trong chẩn đoán trước sinh Ths. BS Vũ Công Thành, Trung tâm Xét nghiệm Medlatec

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, tần suất dị tật bẩm sinh chiếm 3- 4% tổng số trẻ được sinh ra bao gồm cả trẻ sống và chết lúc sinh. Còn tại Việt Nam, theo Trung tâm Chẩn đoán trước sinh Bệnh viện Phụ sản Trung ương, có 3% thai nhi bị dị tật bẩm sinh.

Dị tật bẩm sinh là một trong những bất thường hay gặp ở thai nhi và trẻ sơ sinh và là một trong những nguyên nhân chính gây nên tử vong và bệnh tật của trẻ trong những năm đầu của cuộc sống. Các dị tật bẩm sinh tuỳ theo mức độ nặng nhẹ sẽ ảnh hưởng đến khả năng sống, khả năng sinh hoạt, tuổi thọ và sự hoà nhập cộng đồng của trẻ bị dị tật. Một số dị tật thai nhi thường gặp là hội chứng Down, Edwards, Patau và dị tật ống thần kinh.

ThS. BS Vũ Công Thành, Trung tâm Xét nghiệm Medlatec báo cáo tại hội nghị.

Qua bài báo cáo của Ths. BS Vũ Công Thành, chúng ta có thể thấy “Sàng lọc trước sinh là việc làm cần thiết giúp mang lại chất lượng cuộc sống cho toàn xã hội-đây là một chiến lược lâu dài và cần có sự tham gia của nhiều tổ chức”- sàng lọc trước sinh là sàng lọc nhiều nhóm bệnh lý khác nhau, do đóngoài siêu âm thì cần làm thêm các xét nghiệm cần thiết khác để sàng lọc như: Triple test, Double test…

Khuyến cáo tất cả phụ nữ mang thai đều nên được thực hiện sàng lọc trước sinh, đặc biệt những thai phụ có tiền sử gia đình có dị tật bẩm sinh, có sử dụng thuốc hoặc các chất có thể gây hại cho thai, bị bệnh tiểu đường và có sử dụng insulin, bị nhiễm virus trong thời kỳ mang thai, có tiếp xúc với phóng xạ liều lượng cao hoặc trên 35 tuổi.

Nội dung 3: "Thalassemia: Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh" TS Nguyễn Thị Thu Hà

Ngoài các nội dung tập huấn về xét nghiệm y khoa, các chuyên gia và các bác sĩ được tìm hiểu thêm về căn bệnh Thalassemia (bệnh tan máu bẩm sinh). Khoảng 7% dân số thế giới mang gene bệnh Thalassemia. Tại Việt Nam có khoảng 5 triệu người mang gen bệnh (14% dân số) với khoảng 2.000 trẻ sinh ra bị bệnh sinh ra mỗi năm.

Hiện nay có hơn 20.000 bệnh nhân bị tan máu bẩm sinh cần điều trị. Nếu không theo dõi, quản lý và tầm soát kịp thời có thể dẫn đến các ảnh hưởng xấu về di truyền và sự phát triển của giống nòi. Vì vậy việc khám và sàng lọc nguồn gene bệnh tại địa bàn dân cư là vô cùng quan trọng.

Qua hội nghị, TS. Nguyễn Thị Thu Hà cũng đã chia sẻ các kiến thức liên quan đến bệnh Thalassemia, liên quan đến cơ chế gây bệnh, chẩn đoán sơ bộ, chẩn đoán phân biệt và cách dự phòng căn bệnh Thalassemia trong cộng đồng.

GS. AHLĐ Nguyễn Anh Trí - Nguyên Viện trưởng Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương, Chủ tịch Hội Thalassemia Việt Nam

Phát biểu tại buổi lễ, GS. AHLĐ Nguyễn Anh Trí - Nguyên Viện trưởng Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương, Chủ tịch Hội Thalassemia Việt Nam đã nhấn mạnh vai trò của các xét nghiệm y khoa cũng như tầm quan trọng của việc cập nhật liên tục các xét nghiệm y khoa khi nền y học trên thế giới ngày càng phát triển và có thêm nhiều xét nghiệm mới.

Cũng tại chương trình, Ths. Bs Nguyễn Thị Kim Len - Giám đốc BVĐK Medlatec trao tặng 2000 suất xét nghiệm miễn phí ung thư gan trị giá 500 triệu đồng vào tháng 7/2018 cho người dân tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong những hoạt động hướng tới mục tiêu “Vì sức khòe cộng đồng” mà Medlatec đã và đang thực hiện.

ThS. BS Nguyễn Thị Kim Len - Giám đốc BVĐK MEDLATEC trao tặng 2000 suất xét nghiệm miễn phí ung thư gan trị giá 500 triệu đồng cho người dân tỉnh Bắc Ninh

Hội nghị “Tập huấn cập nhật các xét nghiệm y khoa và Thalassemia” không chỉ giúp các y bác sĩ nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị phục vụ nhân dân đã mà còn mở ra nhiều cơ hội mới trong việc hợp tác, liên thông y tế cùng phát triển giữa các bệnh viện trong khu vực, tất cả vì mục tiêu chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Thanh Loan

Thuốc mới thế hệ thứ tư: Kết hợp giữa Nam dược thiên nhiên cổ truyền với công nghệ nano và y học hiện đại

Công nghệ nano biến những điều không thể thành có thể

Như chúng ta đã biết, Nam dược cổ truyền được chế tác phần lớn từ cây cỏ. Để nâng cao khả năng chữa trị bệnh, y học phương Tây đã sử dụng công nghệ tách chiết những thành phần phytochemical. Điển hình như tách chiết curcumin từ cây nghệ vàng, artemisinin từ cây thanh hao hoa vàng, rutin từ cây hòe.. Những phytochemical này có dược tính rất mạnh. Nhưng khả năng hòa tan trong nước thấp, sinh khả dụng thấp, thiếu sự tương xứng về liều lượng dùng, sự kết tủa không thể kiểm soát, việc sử dụng dung môi quá nhiều, đòi hỏi điều kiện khắt khe để hòa tan (môi trường trung tính hoặc có tính axit) và không tương hợp sinh học với bệnh nhân là một số trong những trở ngại chính cản trở hiệu quả của phytochemical. Để khắc phục những bất tiện trên, hệ thống phân phối thuốc dựa trên công nghệ nano đã được chứng minh là phương pháp đáng tin cậy và đầy hứa hẹn nhất. Để tăng cường khả năng sinh khả dụng của các thuốc có khối lượng phân tử cao, giờ đây hoàn toàn có thể phân phối các thành phần dược phẩm hoạt động dưới dạng các hạt kích thước nano từ 10 đến 1.000nm. Hệ thống phân phối thuốc công nghệ nano đã được chứng minh là một phương pháp hiệu quả nhất để phân phối thành công các loại thuốc không tan được với khả năng sinh khả dụng được tăng cường. Một số dạng các hạt nano của phytochemical đang được phát triển để đóng gói thành công, như các hạt liposome, hạt nano, các mixen, nanogels, nanoemulsions, hệ thống tinh thể nano, phức phytosome, bao gồm các phức hợp và dendrimer/ dimer.

Thuốc Nam thế hệ thứ tư từ Nam dược cổ truyền kết hợp với công nghệ nano và y học hiện đại.

Thuốc Nam thế hệ thứ tư từ Nam dược cổ truyền kết hợp với công nghệ nano và y học hiện đại.

Công nghệ chế tạo thuốc mới - Thuốc Nam dược thế hệ thứ tư

Chế tạo thuốc phòng tránh và chữa trị bệnh, đặc biệt là bệnh cấp tính và bệnh mạn tính như: đột quỵ, ung thư, bệnh đau xương khớp, tiểu đường... bằng phương pháp kết hợp sự thông minh của y học cổ truyền. Nam dược thiên nhiên với công nghệ nano và y học hiện đại phương Tây, là hướng nghiên cứu phát triển mới của nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học ở các nước trên thế giới. Nó không những có tính khoa học và công nghệ cao mà còn mở ra triển vọng lớn cho ngành y - dược học của thế giới cũng như của Việt Nam. Bằng tư duy khoa học này, trong thời gian qua, các nhà khoa học tại Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam cùng với một số phòng nghiên cứu Khoa học nước ngoài ở Australia, Mỹ, Nhật Bản, kết hợp Phòng Nghiên cứu đã nghiên cứu phát triển thành công một số sản phẩm thuốc và thực phẩm chức năng từ những Phytochemicals (Biochemical) chiết tách từ nguồn nguyên liệu Nam Dược cổ truyền Việt Nam. Bằng công nghệ nano hạt Micelle, công nghệ nano Sol-Gel siêu hạt nano, công nghệ tự lắp ghép (Self-Assembled Monolayer - SAM). Đã chế tạo ra một số sản phẩm dược liệu cấu trúc nano như: Nano Rutin từ cây hoa hòe, Nano Curcumin từ cây nghệ vàng, Nano Gingerol từ cây gừng, Nano Notogingseng Saponins từ cây tam thất, Nano NgocLinh Saponin từ cây sâm ngọc linh, NanoCinnamomum zeylanicum từ cây quế, Nano Licopen từ cây gấc, Nano Artemisin từ cây thanh hao hoa vàng... Từ những sản phẩm cấu trúc nano này, Nhà máy Sinh phẩm Nano đã sản xuất nhiều dược phẩm và thực phẩm chức năng thế hệ mới. Những sản phẩm này không những có dược tính cao, sinh khả dụng lớn mà còn khắc phục được những tác dụng phụ và kháng thuốc của thuốc Tây.

Bằng cách lồng ghép trí tuệ Nam dược cổ truyền với công nghệ nano và y học hiện đại, thuốc Nam thế hệ thứ tư mang đặc tính thuốc thông minh. Có sinh khả dụng cao, khả năng nhắm trúng đích của thuốc, khả năng tải thuốc, các phức hợp chất mang phân tử trong cơ thể là những chất sinh - hữu cơ (những tương tác với các vi môi trường sinh học, tỷ lệ chuyển hóa và tích lũy trong các cơ quan), khắc phục các tác dụng độc hại của phân tử truyền tải hay các sản phẩm chuyển hóa của nó, sự sản xuất với quy mô lớn, sự ổn định trong thời gian lưu trữ lâu dài và chi phí sản xuất không cao.

Viên thuốc phòng chống ung thư dạng nang mềm. Trong viên thuốc này bao gồm nhiều hạt nano chứa ba loại dược chất chống ung thư từ phytochemical bằng công nghệ nano Micell Đảo. Ba dược chất này cùng tác dụng tiêu diệt và ức chế lên tế bào ung thư. Bên ngoài được đính chất tìm mục tiêu, chất tăng tiềm lực (Potientiation Therapy) hoạt tính R. Các dạng thuốc nano đều có tính chất có thể giải phóng được dược chất gắn trong đó khi tiếp xúc khối u, nhưng bị phân hủy ở tế bào lành. Vì vậy, chúng có khả năng mang thuốc đến tận đích tác dụng và giải phóng thuốc tại đích.

Ứng dụng công nghệ nano trong y học hiện đang được phát triển bao gồm việc sử dụng các hạt nano để phân phối thuốc. Thuốc thông minh nhờ cảm ứng nhiệt, ánh sáng, kích thước, độ pH… hoặc các tính chất khác nhau giữa vùng bị bệnh và vùng lành. Các hạt được thiết kế để chúng bị thu hút vào các tế bào bệnh, cho phép điều trị trực tiếp các tế bào đó. Kỹ thuật này làm giảm thiệt hại cho các tế bào lành mạnh trong cơ thể và cho phép phát hiện sớm bệnh.

Thuốc mới, thuốc Nam dược cổ truyền thế hệ thứ tư, hy vọng sẽ là cuộc cách mạng trong nghiên cứu, bào chế ra nhiều loại với tác dụng dược lý cao, không mang hiệu ứng phụ độc hại, với giá thành bệnh nhân chấp nhận được.

GS. Nguyễn Đức Nghĩa (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam)